I.ĐẠI CƯƠNG
U bã đậu là một dạng u có cấu tạo bởi lớp vỏ bọc, bên trong là chất bã mềm màu vàng nhạt hoặc trắng đục. U thường không gây đau, không gây ác tính. U sẽ to dần theo thời gian và gây cảm giác khó chịu. U bã đậu có thể tấy đỏ, đau nhức khi có sự xâm nhập của vi khuẩn gây viêm, và dẫn đến áp xe bã đậu.
Tuyến bã có nhiệm vụ bài tiết một chất như sáp hay dầu – gọi là chất bã. Chất này đi theo một ống đổ vào nang lông, rồi thoát ra ngoài ở lỗ chân lông, giúp bôi trơn da. Khi ống tuyến bã bị tắc, chất bã sinh ra không được bài xuất, tích tụ lại, dần dần hình thành u bã đậu.
U thường xuất hiện ở các vùng da tiết nhiều mồ hôi dầu. Vị trí hay gặp là vành tai, trái tai, mặt, nách, lưng, ngực, vai, mông, bộ phận sinh dục.
Khi u nhỏ, u nổi cục giống như mụn bọc. Nhiều người hay nhầm tưởng u bã đậu với mụn nên tự ý rạch, nặn lấy nhân bên trong nhưng u lại mọc tiếp, tái đi tái lại nhiều lần. Mới đầu u không gây đau hay khó chịu. Thời gian sau, chất bã tích tụ nhiêu hơn sẽ làm khối u tăng dần kích thước. Khi u lớn hơn, u nổi lên trên mặt da. Sờ vào có cảm giác mềm, mặt khối u nhẵn. Ấn nắn thấy u di động được.
II.CHỈ ĐỊNH
Bị u bã đậu nhưng không có các bệnh kèm theo nặng nề
III.CHỐNG CHỈ ĐỊNH
Người bệnh có các bệnh kèm theo mức độ nặng
IV. CHUẨN BỊ
1.Người thực hiện: BS phẫu thuật ngoại, 2 phụ phẫu thuật
1.Người bệnh: Giải thích bệnh, cam kết mổ
2.Dụng cụ: Bộ tiểu phẫu đầy đủ
V.CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH
1.Tư thế: Tùy vị trí u bã
2.Vô cảm: Tê tại chổ
3.Kỹ thuật:
Một số quan điểm về mổ u bã đậu
Trường hợp u bã đậu bị viêm, có tác giả vẫn chủ trương cắt bỏ, rửa vết mổ rồi khâu da thì đầu. Tuy nhiên, nhiều tác giả khác khuyên nên điêu trị nội khoảng 1 tuần rồi mổ. Không nên mổ lúc vỏ u còn viêm tấy vì dễ vỡ, khó lấy được hết.
Kỹ thuật mổ lấy trọn u bã đậu tránh tái phát về sau
Các bước phẫu thuật
Cho bệnh nhân nằm tư thế thuận lợi trên bàn mổ, bộc lộ vùng mổ.
Phẫu thuật viên rửa tay, mang găng, trải khăn lỗ.
Gây tê tại chỗ:
Gây tê trong da theo đường mổ trên u và quanh u, gây tê dưới u. Lưu ý không chích thuốc tê vào u sẽ làm tăng áp lực trong u dẫn đến vỡ u. Có thể kiểm tra việc này bằng cách để ngón tay cái và ngón tay trỏ ôm sát quanh u. Khi chích thuốc tê mà thấy u căng ra là đã chích thuốc vào u, phải rút kim và đổi hướng chích.
Rạch da:
Nếu u không bị viêm, không có sẹo cũ, không có chỗ lõm màu đen ở trung tâm thì có thể rạch đường thẳng qua trung tâm u. Nếu u bị viêm, có sẹo cũ, có lõm ở trung tâm hay u lớn mà ước đoán nếu mổ theo đường thẳng sẽ bị dư 2 mép da nhiều thì rạch da hình elíp.
Ở từng mép đường rạch, dùng mũi dao tiếp tục rạch từ từ, sâu dần vào trong da. Rạch đến vỏ u hay sát vỏ u thì ngừng lại. Lưu ý là không nên nôn nóng rạch đứt hoàn toàn qua da vì nhiều khả năng sẽ phạm vào vỏ u. Người phụ nên dùng kẹp Mosquito cầm mép da của đường rạch kéo căng về một phía trong khi phẫu thuật viên dùng nhíp cầm mép da đối diện kéo theo hướng ngược lại để thấy rõ đường cắt.
Sau khi thấy rõ giới hạn một bên u, tiếp tục dùng kẹp Mosquito và kéo phẫu tích ôm sát chiều cong của vỏ u và cắt rời u khỏi mô xung quanh. Tiếp tục làm tương tự với bên đối diện. Nếu có chỗ chảy máu nhiều, phải đốt cầm máu (nếu có máy đốt) hay kẹp rồi buộc chỉ.
Sau khi lấy u ra ngoài phải kiểm tra xem có rách vỏ u chỗ nào không. Nếu có, phải tìm lấy mảnh vỏ u còn sót. Cầm máu lại kỹ vết mổ.
Khâu vết mổ:
Thường chỉ cần khâu 1 lớp bằng chỉ không tan, cỡ 3-0 hay 4-0. Trừ trường hợp mổ u bã đậu ở mặt có thể dùng chỉ nhỏ hơn. Nếu u lớn, vùng khuyết sau mổ lấy u đáng kể thì phải đóng 2 lớp, bao gồm lớp mỡ dưới da và da riêng.
Băng kín vết mổ.
Trường hợp áp xe bã đậu, phải lấy hết mảnh vỡ của vỏ u, nên để hở vết mổ, có dẫn lưu.
Chăm sóc vết thương
Với vết mổ sạch, người bệnh có thể tự thay băng mỗi ngày. Với vết mổ bẩn, có mủ, cần phải thay băng hằng ngày.
Thường trung bình sau từ 1 đến 2 tuần có thể cắt chỉ vết mổ. Riêng vết mổ ở mặt có thể cắt chỉ sớm hơn khoảng 5-7 ngày. Vết thương ở những vùng da căng, chịu lực có thể cắt chỉ muộn hơn.
Theo dõi biến chứng có thể gặp sau mổ u bã đậu
Tụ máu hay tụ thanh dịch vùng mổ:
Thường gặp sau mổ lấy bỏ những u bã đậu lớn, để lại khoảng trống đáng kể. Tụ máu, tụ dịch nhiều gây sưng, đau vùng mổ, chậm lành vết mổ. Có khi phải xử trí lại bằng dẫn lưu máu hay dịch tụ. Phòng ngừa tốt nhất là cầm máu kỹ, khâu đóng khoảng chết và băng ép có trọng điểm.
Chảy máu vết mổ:
Biến chứng này ít khi gặp, thường do cầm máu không kỹ. Xử trí bằng băng ép hay mở vết mổ cầm máu lại nếu chảy nhiều.
Nhiễm trùng vết mổ:
Biểu hiện bằng đau nhức tại chỗ, sưng đỏ mép vết mổ hay chảy dịch bẩn qua vết mổ. Xử trí bằng cách cắt chỉ để hở vết mổ, chăm sóc tại chỗ kết hợp với kháng sinh.